Trong những năm gần đây, thuật ngữ “Phiếu lý lịch tư pháp” đã trở nên khá quen thuộc đối với đa số người dân và doanh nghiệp, kể cả người nước ngoài đã và đang làm việc ở Việt Nam. Pháp luật hiện hành qui định Phiếu lý lịch tư pháp (LLTP) là một loại giấy tờ do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và 63 Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) cấp có giá trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích; bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Phiếu LLTP có giá trị pháp lý chứng minh cá nhân có hay không có án tích, có bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ theo quyết định tuyên bố phá sản. Với ý nghĩa như vậy thì trong xu thế hội nhập quốc tế, không chỉ có người Việt Nam cần phải có Phiếu LLTP để hoàn thiện hồ sơ khi tham gia vào các quan hệ cụ thể như tuyển dụng vào các cơ quan, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tham gia vào một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tham gia vào các thủ tục hành chính (TTHC) mà người nước ngoài đến Việt Nam cũng cần phải có khi tham gia vào một số qun hệ lao động cụ thể. Trên thế giới, với mỗi quốc gia, do hệ thống pháp luật khác nhau nên việc qui định về giá trị pháp lý cũng như việc sử dụng Phiếu LLTP cũng có sự khác nhau, không đồng nhất. Ở Việt Nam, mặc dù Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt việc cải cách TTHC, đơn giản hóa giấy tờ trong thành phần hồ sơ trong đó có Phiếu LLTP nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, tuy nhiên, ở nhiều địa phương vẫn diễn ra tình trạng
“...một số tổ chức, danh nghiệp, cá nhân còn lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu lịch tư pháp làm cơ sở tuyển dụng, quản lý, sử dụng lao động...dẫn tới tình trạng chậm trễ, ùn ứ gây bức xúc trong dư luận xã hội”1. Để khắc phục tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 09 tháng 7 năm 2023 yêu cầu các Bộ, ngành và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện đồng bộ các biện pháp như tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể sử dụng Phiếu LLTP, đơn giản hóa các qui định, TTHC liên quan đến Phiếu LLTP, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để cấp Phiếu LLTP trực tuyến toàn trình.v.v... Hơn một năm triển Chỉ thị số 23/CT-TTg, hoạt động cấp Phiếu LLTP đã có những bước chuyển biến tích cực, đáp ứng nhu cầu hợp pháp, chính đáng của người dân. Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy xu thế biến động của yêu cầu cấp Phiếu LLTP của người dân có chiều hướng gia tăng và đi kèm theo đó là vấn đề lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan về xu thế đó, đồng thời sớm nghiên cứu để đề ra các giải pháp phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
1. Hiểu như thế nào là “Lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp”
Ở thời điểm hiện nay, các văn bản pháp luật chưa giải thích rõ như thế nào là
“lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp” hay
“lạm dụng Phiếu lý lịch tư pháp”. Vì vậy, ở mỗi góc độ của chủ thể sử dụng Phiếu LLTP sẽ có sự nhìn nhận khác nhau về vấn đề này.
Trong đời sống xã hội, thuật ngữ
“lạm dụng” được sử dụng khá phổ biến. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1992, trang 538) đã định nghĩa
“Lạm dụng” là
“dùng, sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn”. Như vậy, trong lĩnh vực LLTP, có thể hiểu
“Lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp” là hành vi của cơ quan, tổ chức yêu cầu cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài) cung cấp Phiếu LLTP của họ vượt quá phạm vi giới hạn theo qui định của pháp luật.
Theo khoản 4 Điều Luật LLTP năm 2009 thì Phiếu LLTP có giá trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích; bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản; và Điều 7 của Luật qui định có 03 nhóm chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và 63 Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) cấp Phiếu LLTP, bao gồm:
Thứ nhất, công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của chính cá nhân họ (trừ trường hợp ủy quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP). Với nhóm chủ thể này, việc yêu cầu cấp Phiếu LLTP của họ phát sinh khi họ muốn biết về nhân thân trong quá khứ của bản thânkhi họ cần có Phiếu LLTP số 2 hoặc sử dụng Phiếu LLTP để tham gia các TTHC có Phiếu LLTP là một thành phần hồ sơ của TTHC hoặc tham gia vào các quan hệ khác như lao động, việc làm... khi pháp luật chuyên ngành có qui định phải có Phiếu LLTP trong thành phần hồ sơ.
Từ kết quả rà soát các qui định, TTHC liên quan đến Phiếu LLTP thuộc các ngành, các lĩnh vực theo yêu cầu Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 11/6/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg Phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa qui định, TTHC liên quan đến Phiếu LLTP, theo đó, 148 TTHC cần thiết phải đơn giản hóa, bao gồm: 08 TTHC thuộc lĩnh vực Khoa học và Công nghệ; 04 TTHC thuộc lĩnh vực Ngoại giao; 15 TTHC thuộc lĩnh vực Nội vụ; 02 TTHC thuộc lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 28 TTHC trong lĩnh vực Tài chính; 28 TTHC thuộc lĩnh vực Tư pháp; 01 TTHC thuộc lĩnh vực xây dựng; 07 TTHC thuộc lĩnh vực Y tế; 19 TTHC thuộc lĩnh vực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 03 TTHC thuộc lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 19 TTHC thuộc lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội; 05 TTHC thuộc lĩnh vực Công an; 02 TTHC thuộc lĩnh vực Quốc phòng và 03 TTHC thuộc lĩnh vực Giao thông vận tải).
Như vậy, ở thời điểm ban hành Quyết định, pháp luật qui định có 148 TTHC có Phiếu LLTP trong thành phần hồ sơ ở tất cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước (loại trừ các thủ tục yêu cầu cấp Phiếu LLTP vì trong thành phần hồ sơ không có Phiếu LLTP). Việc yêu cầu người dân phải có Phiếu LLTP để thực hiện TTHC hoặc phục vụ các nhu cầu khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà pháp luật không qui định thì đây được coi là lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP.
Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Pháp luật tố tụng hình sự đã xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó để làm rõ nhân thân của người có hành vi phạm tội, Điều 46 khoản 1 Luật LLTP đã cho phép cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp Phiếu LLTP số 2.
Thứ ba, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (cơ quan, tổ chức) có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã. Các chủ thể này đều có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và có đội ngũ nhân sự được tuyển dụng theo qui định của pháp luật, vì vậy, Luật LLTP qui định rõ quyền yêu cầu và mục đích yêu cầu cấp Phiếu LLTP của họ đối với các nhân sự thuộc trong cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức. Trong trường hợp vì lý do nào đó, cơ quan, tổ chức buộc nhân viên thực hiện yêu cầu cấp Phiếu LLTP để nộp lại cho cơ quan, tổ chức đó, thì đây là việc làm không đúng thẩm quyền, lạm dụng quyền yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP của nhân viên.
Như vậy, lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP theo tinh thần Chỉ thị số 23/CT - TTg có thể có những đặc trưng:
- Pháp luật không qui định Phiếu LLTP trong hồ sơ giải quyết công việc nhưng cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân (hộ gia đình) vẫn yêu cầu người dân phải có.
- Trách nhiệm thuộc về cơ quan, tổ chức nhưng bắt buộc người dân phải làm.
- Việc lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP gây ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của người dân nhưng mặc nhiên không trái qui định của pháp luật, bởi lẽ pháp luật không cấm điều này.
2. Thực trạng và biểu hiện của tình trạng “lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp”
Trong những năm qua, việc lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP diễn ra tương đối đa dạng. Sau khi triển khai Chỉ thị số 23/CT-TTg, cùng với việc đẩy mạnh hoạt động truyền thông về LLTP đồng bộ tại 63 tỉnh, thành phố, hoạt động cấp Phiếu LLTP đã từng bước chuyển biến tích cực: số yêu cầu cấp Phiếu LLTP được giải quyết gia tăng; các hình thức cấp Phiếu LLTP được mở rộng hơn với sự hình thành của việc cấp Phiếu LLTP qua ứng dụng định danh và xác thực điện tử (VneID); chất lượng dịch vụ cấp Phiếu LLTP không ngừng được bảo đảm. Sơ kết một năm thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg, kết quả cho thấy Trung tâm LLTP quốc gia và 63 Sở Tư pháp đã cấp 1.119.950 Phiếu LLTP
2. Mặc dù chưa có cuộc khảo sát về việc sử dụng Phiếu LLTP của người dân nhưng qua phân tích, đánh giá mục đích sử dụng được người dân kê khai trong các hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP, kết quả cho thấy các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đã thực hiện tương đối nghiêm túc quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của mỉnh, qua đó góp phần tích cực khắc phục tình trạng lạm dụng. Ở nhóm chủ thể là doanh nghiệp, tại những địa bàn làm tốt công tác quản lý nhà nước về LLTP và truyền thông về LLTP (Bến Tre, Đồng Tháp, Bình Phước, Hà Giang, Sơn La.v.v...), tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP cơ bản được khắc phục. Điển hình là trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Công ty TNHH Liên doanh Nghị Phong (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) có 02 nhóm lao động: 24 chuyên gia nước ngoài và 3.000 công dân Việt Nam. Theo khoản 3 Điều 9 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ qui định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động phải có Phiếu LLTP đối với lao động là người nước ngoài. Khi Sở Tư pháp phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội kiểm tra thực tế, Công ty chỉ yêu cầu các lao động là người nước ngoai phải nộp Phiếu LLTP trong hồ sơ tuyển dụng; đối với người lao động là công dân Việt Nam, Công ty không yêu cầu nộp Phiếu LLTP trong hồ sơ tuyển dụng mà chỉ cần văn bản
“xác nhận hạnh kiểm tại chính quyền địa phương theo mẫu trong hồ sơ xin việc”3.
Đối với việc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 của các cơ quan tiến hành tố tụng, chỉ tính riêng năm 2023, Tòa án nhân dân các cấp
“...đã xét xử 94.161 vụ án hình sự với tổng số 176.040 bị cáo, đạt 98% về số vụ và 96,35% về số bị cáo”4. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của ngành Tư pháp, số trường hợp yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cung cấp Phiếu LLTP của bị can, bị cáo chiểm tỷ lệ không đáng kể so với tổng số bị cáo đã được xét xử và so với tổng số Phiếu LLTP đã cấp. Như vậy có thể khẳn định, việc lạm quyền yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP không phát sinh ở nhóm chủ thể này.
Tuy nhiên, ở nhóm các doanh nghiệp, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam; các cơ quan, tổ chức của các nước có công dân Việt Nam đến lao động, học tập, định cư thì tình trạng lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP có xu hướng gia tăng. Từ kết quả cấp Phiếu LLTP sau một năm thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg, có thể tập hợp lại một số biểu hiện của tình trạng lạm dụng yêu cầu cung cấp Phiếu LLTP như sau:
Thứ nhất, pháp luật không qui định Phiếu LLTP trong hồ sơ giải quyết công việc nhưng cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp vẫn yêu cầu người dân phải có Phiếu LLTP. Biểu hiện này đã được một số Báo đưa tin và phản ánh về những khó khăn của người dân khi làm thủ tục để cấp Phiếu LLTP, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của người dân như bài viết:
“một số công ty như: shopeefood, grap food khi….. khi tuyển người giao hàng đều yêu cầu phải cung cấp Phiếu LLTP… Nếu không có Phiếu lý lịch tư pháp thì không được tiếp nhận hồ sơ xin việc”5. Ở một số địa phương (Đắc Nông, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang…)….. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam không những yêu cầu công dân nộp Phiếu LLTP (Thái Nguyên, Trà Vinh) mà còn yêu cầu phải nộp Phiếu LLTP số 2.
Thứ hai, Pháp luật qui định chỉ cần Phiếu LLTP số 1 nhưng cơ quan, tổ chức, cá nhân lại yêu cầu Phiếu LLTP số 2.Tình trạng này xuất hiện phổ biến khi công dân Việt Nam đi lao động, học tập ở nước ngoài hoặc định cư ở nước ngoài (Mỹ, Canada và một số nước EU). Nếu công dân Việt Nam không đáp ứng yêu cầu thì hồ sơ của họ sẵn sàng bị từ chối. Theo Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg của các tỉnh, thành phố: Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng.... thì số lượng yêu cầu cấp Phiếu LLTP của người dân có xu hướng gia tăng, đặc biệt là “việc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 có xu hướng ngày càng tăng so với trước khi có Chỉ thị số 23/CT-TTg. Các cơ quan như cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 khi xin thị thực nhập cảnh hoặc làm mọt số thủ tục khác tại cơ quan đại diện; một số cơ quan có thẩm quyền của Việt Nâm và doanh nghiệp cũng yêu cầu cá nhân nộp Phiếu LLTP số 2 để xin giấy phép an ninh hàng không, chứng khoán, xin việc làm... dẫn đến số lượng hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP gia tăng”
6.
Thứ ba, Pháp luật không qui định thời hạn sử dụng Phiếu LLTP nhưng một số tổ chức, doanh nghiệp vẫn yêu cầu nộp Phiếu theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Pháp luật hiện hành không qui định thời hạn sử dụng của Phiếu LLTP nên việc sử dụng Phiếu trong thời gian bao lâu kể từ ngày được cấp Phiếu hoàn toàn phụ thuộc vào người sử dụng Phiếu. Theo tinh thần của Luật LLTP thì Phiếu LLTP chỉ chứng minh một cá nhân có hay không có án tích tính từ thời điểm cấp Phiếu trở về quá khứ của họ.
Thứ tư, pháp luật qui định quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP thuộc về cơ quan, tổ chức, tuy nhiên,cơ quan, tổ chức không thực hiện quyền năng này mà họ yêu cầu bắt cá nhân phải thực hiện yêu cầu cấp Phiếu LLTP. Những trường hợp nay phát sinh chủ yếu khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành việc tuyển dụng công chức, viên chức. Theo đó “các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội chưa chủ động thự hiện quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP theo qui định của Luật LLTP mà chủ yếu yêu cầu cán bộ, công chức, viên chức, người dân phải nộp”.
Phát sinh tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP có thể xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về mặt pháp lý, Luật LLTP và các văn bản pháp luật có liên quan chưa xác định rõ nội hàm của cụm từ “lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP”.
Điều 8 Luật LLTP chỉ qui định 6 hành vi bị cấm (khai thác, sử dụng trái phép, làm sai lệch, hủy hoại dữ liệu LLTP; cung cấp thông tin LLTP sai sự thật; giả mạo giấy tờ yêu cầu cấp Phiếu LLTP; tẩy xoá, sửa chữa, giả mạo Phiếu LLTP; cấp Phiếu LLTP có nội dung sai sự thật, trái thẩm quyền, không đúng đối tượng; sử dụng Phiếu LLTP của người khác trái pháp luật, xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân), trong đó không có hành vi “lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP” hay “Lạm dụng Phiếu LLTP” hay “hành vi sử dụng Phiếu LLTP không đúng mục đích”.
Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật có TTHC liên quan đến Phiếu LLTP, cá biệt có cơ quan chủ trì soạn thảo chưa thực sự chú trọng tới vấn đề này, điển hình là qui định về Phiếu LLTP trong hồ sơ tuyển dụng viên chức được qui định tại Nghị định số 85/2023/NĐ-CP ngày 7/12/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức. Mặc dù được ban hành sau khi có Chỉ thị số 23/CT-TTg, tuy nhiên Khoản 10 Điều 1 Nghị định này vẫn qui định hồ sơ tuyển dụng viên chức mà người trúng tuyển phải có
“Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo kết quả trúng tuyển, người trúng tuyển phải hoàn thiện hồ sơ tuyển dụng, bao gồm:….b) Phiếu lý lịch tư pháp số 1 do cơ quan có thẩm quyền cấp”7.
Ngoài ra, khi người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để thực hiện thỏa thuận quốc tế, trong hồ sơ của người lao động, mặc dù pháp luật Việt Nam chỉ qui định
“Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người lao động thường trú hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý người lao động”8. Tuy nhiên, quá trình thương lượng, đàm phán với các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chưa chưa quan tâm đến qui định này cũng như qui định của pháp luật nước sở về Phiếu LLTP. Vì vậy, khi doanh nghiệp tuyển dụng lao động để ra nước ngoài làm việc, doanh nghiệp vẫn buộc người lao động phải có Phiếu LLTP trong thành phần hồ sơ.
Thứ hai, về mặt xã hội, việc Luật LLTP qui định mục đích sử dụng của Phiếu LLTP số 2, ngoài việc phục vụ hoạt động của các cơ quan tố tụng thì xuất phát từ chính sánh nhân văn của Đảng, Nhà nước ta, việc sử dụng Phiếu LLTP số 1 nhằm giúp cho người đã được xóa án tích được bình đẳng, tránh phân biệt đối xử, kỳ thị. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp vẫn có tâm lý như ngạn ngữ Việt Nam “giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời” nên vẫn yêu cầu Phiếu LLTP số 2 để xem lại nhân thân, tư cách đạo đức của một người dân có nhu cầu về lao động, việc làm. Mặc dù khi tuyển dụng lao động, doanh nghiệp luôn mong muốn biết rõ tình trạng nhân thân, tư cách đạo đức, có hay không việc đã từng vi phạm pháp luật của người ứng tuyển để cân nhắc, quyết định tuyển dụng và bố trí, sắp xếp người lao động vào vị trí công việc phù hợp trong doanh nghiệp, ở góc độ lợi ích doanh nghiệp thì đây là nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp không có quyền đi xác minh hoặc yêu cầu các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP để cấp Phiếu LLTP dẫn đến họ phải yêu cầu người ứng tuyển cung cấp Phiếu LLTP. Việc làm này không những không phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người đã được xóa án tích mà còn có dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử đối với họ.
3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Mục tiêu của cải cách hành chính nói chung và cải cách TTHC nói riêng là lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, muốn đạt được mục tiêu này thì chất lượng dịch vụ hành chính công phải được bảo đảm và phải có giải pháp phù hợp xử lý triệt để tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp Phiếu LLTP, trước mắt, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức của người dân về giá trị pháp lý của Phiếu LLTP; nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân của cơ quan, tổ chức đối với các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân.
Thứ hai, tăng cường phối hợp giữa các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội với tổ chức Công đoàn cùng cấp và các Hiệp hội doanh nghiệp, Ban Quản lý các khu công nghiệp ở địa phương để đôn đốc, nhắc nhở, chấn chỉnh việc sử dụng Phiếu LLTP của doanh nghiệp đối với người lao động.
Thứ ba, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong việc hoàn thiện hồ sơ của lao động Việt Nam trước khi xuất cảnh, bảo đảm thành phần hồ sơ tuân thủ đúng qui định của Luật; đồng thời, Trung tâm LLTP quốc gia (Bộ Tư pháp) cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Cục Việc làm, Cục Quản lý lao động ngoài nước) tăng cường kiểm tra việc sử dụng Phiếu LLTP trong hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
Thứ tư, tăng cường vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài về bảo hộ pháp lý đối với công dân Việt Nam sang học tập, làm việc, du lịch, định cư.... ở nước sở tại.
Thứ năm, nâng cao năng lực bộ máy của các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, hoàn thiện cơ sở dữ liệu LLTP, nâng cao chất lượng dịch vụ cấp Phiếu LLTP, bảo đảm cho mọi yêu cầu của người dân về cấp Phiếu LLTP được đáp ứng kịp thời, đúng pháp luật.
Thứ sáu, tiếp tục thực thi Phương án cắt giảm, đơn giản hóa qui định, TTHC liên quan đến Phiếu LLTP theo Quyết định 498/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ bảy, sớm nghiên cứu sửa đổi hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về LLTP, theo đó thống nhất chỉ sử dụng duy nhất một loại Phiếu LLTP.