Ngày 19/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 338/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, mục tiêu tổng quát của Chiến lược này là phát triển lý lịch tư pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, bám sát yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới, trên cơ sở thiết lập, tăng cường cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia tập trung, thống nhất; Tổ chức, quản lý cơ quan quản lý lý lịch tư pháp hợp lý, khoa học, hiện đại; gắn việc xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đáp ứng tốt nhất yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, phát huy vị trí, vai trò của lý lịch tư pháp theo hướng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tố tụng hình sự. Trong Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng đã đề ra các quan điểm định hướng, mục tiêu cụ thể phát triển lý lịch tư pháp từng giai đoạn cũng như các giải pháp tổng thể và các giải pháp cụ thể từng giai đoạn nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong Chiến lược.
Trong Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng phân công trách nhiệm cho Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng lộ trình và kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược, xây dựng Kế hoạch triển khai Chiến lược trong từng giai đoạn. Có thể nói, việc xây dựng Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là một đòi hỏi cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả quan điểm định hướng, mục tiêu của Chiến lược đồng thời xác định rõ những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đối với các hoạt động để triển khai thực hiện Chiến lược, thời hạn hoàn thành và trách nhiệm của các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan trong việc triển khai thực hiện các giải pháp của Chiến lược.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh đến trách nhiệm của ngành Tòa án trong việc triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp, cũng như những khó khăn, vướng mắc mà ngành Tòa án gặp phải trong việc thực hiện công tác lý lịch tư pháp; đồng thời đưa ra một số đề xuất, kiến nghị với mục đích nhằm hoàn thiện hơn nữa dự thảo Kế hoạch của Bộ Tư pháp để việc triển khai Chiến lược phát triển lý lích tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đạt hiệu quả mong muốn.
I. Trách nhiệm của ngành Tòa án trong việc triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030
Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 chỉ rõ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà các cấp, các ngành phải thực hiện nhằm triển khai Chiến lược. Trong việc thực hiện Chiến lịch phát triển lý lịch tư pháp, ngành Tòa án không chỉ có trách nhiệm chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc chức năng của mình về công tác lý lịch tư pháp; mà Tòa án nhân dân tối cao còn có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chiến lược, đồng thời phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng các Đề án có liên quan để thực hiện Chiến lược.
1. Về trách nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ về lý lịch tư pháp thuộc chức năng của ngành Tòa án
Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Tòa án là một đầu mối tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp[1] và có trách nhiệm phối hợp thường xuyên với các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan hữu quan khác trong công tác lý lịch tư pháp. Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định Luật Lý lịch tư pháp, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, phục vụ kịp thời yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành văn bản chỉ đạo Tòa án Quân sự trung ương và Tòa án nhân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thực hiện triệt để, thường xuyên việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin về lý lịch tư pháp như cấp trích lục bản án hình sự, quyết định liên quan đến thi hành án hình sự và các thông tin lý lịch tư pháp về án tích, về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Nghị định số111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010[2]. Khi Thông tư liên tịch số 04/2012/TLTT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng được ban hành, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao cũng đã chỉ đạo các đơn vị Tòa án trong ngành triển khai đầy đủ các quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp, trong đó chú trọng đến việc phối hợp kịp thời, hiệu quả với các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ cung cấp, tra cứu, xác minh, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp theo đúng hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 04/2012/TLTT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP[3].
Với sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo ngành như vậy, trong thời gian qua các đơn vị có trách nhiệm trong ngành đã thực hiện tương đối nghiêm túc những quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp, đặc biệt là Thông tư liên tịch số 04. Hầu hết các cấp Tòa án đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định để thực hiện tốt công tác tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp. Các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, bên cạnh việc gửi các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cho các đương sự theo quy định của pháp luật, đều gửi các bản án, quyết định đó cho Sở Tư pháp nơi có trụ sở của Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Các đơn vị Tòa án đều được trang bị các văn bản pháp luật về lý lịch tư pháp để đội ngũ cán bộ làm nghiệp vụ chủ động trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp khi có yêu cầu; phân công cán bộ thường xuyên theo dõi, gửi các loại văn bản, tài liệu liên quan đến việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp và Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Nhiều đơn vị Tòa án cấp tỉnh đã và đang phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh nhằm đảm bảo tính thống nhất với những quy định của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP[4].
Bên cạnh các mặt đạt được trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc chức năng của mình về công tác lý lịch tư pháp đã nêu ở trên, công tác tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của các đơn vị Tòa án theo Thông tư liên tịch số 04 còn tồn tại một số hạn chế như: Công tác phối hợp giữa một số đơn vị Tòa án với các cơ quan hữu quan chưa đi vào nề nếp, lượng thông tin cung cấp cho Sở Tư pháp và Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia chưa đầy đủ, kịp thời thông tin lý lịch tư pháp phát sinh trên thực tế[5], đặc biệt là việc cung cấp các thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá sản quy định tại Điều 37 của Luật Lý lịch tư pháp.
2. Về trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chiến lược; phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng các Đề án có liên quan.
Có thể nói rằng, ngành Tòa án tham gia hầu hết trong việc phối hợp thực hiện các các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chiến lược và dự thảo Kế hoạch như: Xây dựng, hoàn thiện thể chế bảo đảm về lý lịch tư pháp; Xây dựng, quản lý sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp và công chức làm công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại các cơ quan có liên quan; Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của lý lịch tư pháp; Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp. Bên cạnh đó, ngành Tòa án nhân dân còn tham gia vào việc thực hiện một số các Đề án nhằm thực hiện chiến lược như: Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia lý lịch tư pháp; các Đề án xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp; Đề án trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan có liên quan dưới dạng dữ liệu điện tử.
Việc tham gia của ngành Tòa án trong việc phối hợp thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chiến lược là nhằm đề cao trách nhiệm của ngành, đồng thời bảo đảm tính khả thi của các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển lý lịch tư pháp.
II. Một số khó khăn, vướng mắc của ngành Tòa án trong việc thực hiện nhiệm vụ liên quan đến lý lịch tư pháp
Việc Tòa án triển khai các nhiệm vụ liên quan đến lý lịch tư pháp theo các văn bản pháp luật về lý lịch tư pháp, đặc biệt Thông tư liên tịch số 04 cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, một số quy định của Thông tư liên tịch số 04 không thống nhất với quy định của Luật Lý lịch tư pháp; có thể đơn cử ví dụ như sau:
Tại khoản 1 Điều 16 Luật Lý lịch tư pháp quy định: “Tòa án đã xét xử sơ thẩm có nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở các văn bản sau đây:
a) Trích lục bán án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, trích lục bán án hình sự phúc thẩm;
b) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự;
...”.
Trong khi đó, khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch số 04 lại quy định: “Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở trích lục bản án hình sự hoặc bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì Tòa án đã xét xử phúc thẩm cung cấp bản án phúc thẩm kèm theo bản án sơ thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở.
Trường hợp bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ gửi quyết định giám đốc thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở”.
Như vậy, theo quy định nêu trên của Luật lý lịch tư pháp thì Tòa án cần gửi cho Sở Tư pháp trích lục bản án hình sự, trong khi đó theo quy định nêu trên của Thông tư liên tịch số 04 thì Tòa án có thể gửi cho Sở Tư pháp bản án hình sự. Do Luật lý lịch tư pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn Thông tư liên tịch nên xảy ra tình trạng khi thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch số 04 thì Sở tư pháp một số địa phương không nhận bản án do Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án đã xét xử phúc thẩm gửi, mà chỉ nhận trích lục bản án. Trong khi đó, Tòa án cấp sơ thẩm không có thẩm quyền trích lục bản án hình sự phúc thẩm, mà chỉ có thể gửi bản sao y bản chính bản án phúc thẩm.
Thứ hai, trích lục bản án hình sự dùng cho việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp) ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 04 có một số nội dung mà mẫu bản án hình sự sơ thẩm (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) không có, như: Quốc tịch, Dân tộc, Giấy CMTND hoặc Hộ chiếu. Do đó, khi trích lục bản án hình sự không thể có những thông tin như nêu trên để cung cấp cho Sở Tư pháp.
Thứ ba, trong một số trường hợp, Công văn yêu cầu của Sở Tư pháp đề nghị cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, đặc biệt là thông tin về xóa án tích của công dân, không thể hiện rõ công dân đó đã bị Tòa án xét xử hay chưa hoặc bị xét xử vào năm nào nên việc Tòa án tra cứu hồ sơ để có thông tin cung cấp cho Sơ Tư pháp mất rất nhiều thời gian và gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, khâu lưu trữ các thông tin lý lịch tư pháp của Tòa án các địa phương chưa được áp dụng công nghệ thông tin, chưa được đầu tư thỏa đáng. Bên cạnh đó, cán bộ lưu trữ không được đào tạo đúng ngành nghề mà chủ yếu do kiêm nhiệm và thường xuyên có sự thay đổi nhân sự về công tác lưu trữ nên việc tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của các Tòa án địa phương thường gặp khó khăn. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ đầu mối cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại Tòa án cũng là các cán bộ, công chức kiêm nhiệm (Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 04 thì Tòa án nhân dân tối cao giao cho các Tòa phúc thẩm, Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao; ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện giao cho bộ phận hoặc công chức làm nhiệm vụ tống đạt bản án hình sự thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin lý lịch tư pháp). Do vậy, đội ngũ cán bộ Tòa án làm công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp vừa thiếu về số lượng, vừa không chuyên nghiệp, làm ảnh hưởng đến kết quả cung cấp thông tin lý lịch tư pháp.
III. Một số kiến nghị, đề xuất đối với dự thảo Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Tư pháp
Về cơ bản, chúng tôi nhất trí với mục đích, yêu cầu, các nội dung cũng như sự phân công thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trong dự thảo Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 do Bộ Tư pháp xây dựng[6]. Tuy nhiên, để các nhiệm vụ, giải pháp trong dự thảo Kế hoạch phản ánh đúng, đầy đủ và kịp thời những nội dung đã được quy định trong Chiến lược; đảm bảo tính khả thi, đồng thời đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, trong đó có ngành Tòa án và đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan hữu quan trong việc triển khai thực hiện Chiến lược, cũng như khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện công tác lý lịch tư pháp thời gian vừa qua của ngành Tòa án, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, trong Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 thì nội dung hoàn thiện thể chế về lý lịch tư pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó có việc “Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn việc thi hành Luật lý lịch tư pháp và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật lý lịch tư pháp ….” là giải pháp cụ thể thực hiện Chiến lược lý lịch tư pháp trong giai đoạn 2016-2020, do vậy đề xuất sửa đổi dự thảo Kế hoạch theo hướng chuyển nhiệm vụ tại tiểu mục 1.8 mục I Phần B (nhiệm vụ Tổng kết việc thi hành Luật Lý lịch tư pháp) sang Phần II giai đoạn 2016-2020, để phù hợp với Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp.
Bên cạnh đó, cần bổ sung nhiệm vụ, giải pháp trong năm 2013 về việc Sơ kết 01 năm việc thi hành Thông tư liên tịch số 04 và nghiên cứu, rà soát các quy định của Thông tư liên tịch này nhằm bảo đảm tính phù hợp, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác về lý lịch tư pháp, đồng thời phù hợp với nhóm giải pháp về hoàn thiện thể chế đảm bảo thi hành Luật Lý lịch tư pháp đặt ra trong giai đoạn 2013-2015 trong Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp.
Thứ hai, bên cạnh việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm thiết lập cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Sở tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì cần bổ sung trong Kế hoạch về nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn 2013-2015 (nếu có thể thì thực hiện ngay trong năm 2013) là 100% các địa phương phải xây dựng quy chế phối hợp giữa Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Công an tỉnh và Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh trong việc tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp. Thực tiễn cho thấy, ở địa phương nào các cơ quan hữu quan đã xây dựng quy chế phối hợp thì việc tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp ở các địa phương đó đạt hiệu quả cao; còn nơi nào các cơ quan hữu quan chưa xây dựng được quy chế phối hợp thì hiệu quả của công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp ở các địa phương đó còn hạn chế.
Thứ ba, việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức làm công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp là một trong những giải pháp quan trọng trong Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp. Do vậy, trong Kế hoạch cần cụ thể hóa các giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức (trong đó có công chức ngành Tòa án) làm công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, theo hướng Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao trong việc tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng triển khai các văn bản liên quan đến Luật Lý lịch tư pháp và các lớp tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao các kỹ năng cho công chức làm công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp.
Thứ tư, tại mục 5 Phần I dự thảo Kế hoạch có đề cập vấn đề đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật để tăng cường hiệu lực, hiệu quả xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp, mà không đề cập đến các giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất cho ngành Tòa án. Do vậy, đề nghị bổ sung nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2013-2015 trong dự thảo Kế hoạch về việc đề nghị cấp có thẩm quyền đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường hơn nữa việc cung cấp hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin để ứng dụng vào công tác lưu trữ cho ngành Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp. Nếu có thể, đề nghị các cơ quan hữu quan đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan khác có liên quan (trong đó có Tòa án) và thực hiện ngay trong giai đoạn 2013-2015 thay vì giai đoạn 2016-2020 như trong mục 4 Phần II dự thảo Kế hoạch.
[1] Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 2 Luật lý lịch tư pháp 2009).
Xem thêm Điều 16, 37 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009.
[2] Công văn số 55/TA-TKTH ngày 27/6/2011 của Chánh án TANDTC.
[3] Công văn số 22 /TA-TKTH ngày 10/01/2013 của Chánh án TANDTC.
[4] Tính đến ngày 25/11/2012, đã có 19 tỉnh, thành phố trực thuộc TW xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp ở địa phương (theo số liệu của Trung tâm lý lịch quốc gia).
[5] Theo thống kê, số lượng án hình sự/bị cáo mà toàn ngành Tòa án giải quyết hàng năm đều tăng mạnh: năm 2010: 68.381 vụ / 114.988 bị cáo; năm 2011: 75.014 vụ /127.247 bị cáo; năm 2012: 81.643 vụ án/144.448 bị cáo
[6] Xem nội dung Dự thảo ngày 02/4/2013 Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Tư pháp.
Ths. Trần Mạnh Hùng
Tòa án nhân dân tối cao