Nhìn lại 3 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp – Kết quả và những bài học kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả quản lý lý lịch tư pháp
Sign In

Nhìn lại 3 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp – Kết quả và những bài học kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả quản lý lý lịch tư pháp

30/12/2013

Luật Lý lịch tư pháp đã được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Luật Lý lịch tư pháp là đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền của công dân và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt Luật đã xác lập những nguyên tắc, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế.

Những kết quả đạt  được

Qua 3 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trên các mặt từ xây dựng thể chế, phối hợp liên ngành trong việc kiểm tra tình hình thực hiện Luật Lý lịch tư pháp đến việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Trong 3 năm các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lý lịch tư pháp đã được ban hành tương đối đồng bộ: 01 Nghị định, 3 Thông tư, 2 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó phải kể đến Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng định hướng sự  phát triển của lý lịch tư pháp trong tương lai.

Công tác lý lịch tư pháp là lĩnh vực mới mẻ và phức tạp, do vậy việc hình thành tổ chức, bộ máy bố trí cán bộ để thực hiện công tác này đã được các cấp quan tâm. Tổ chức bộ máy, bố trí biên chế làm công tác lý lịch tư pháp tại Bộ Tư pháp và tại các Sở Tư pháp đã từng bước được hình thành và kiện toàn. Hiện nay, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và 05 Phòng Lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp 05 thành phố trực thuộc Trung ương đã được thành lập. Tại các tỉnh phần lớn các Sở Tư pháp đã kiện toàn một bước bộ phận lý lịch tư pháp tại Phòng Hành chính tư pháp để thực hiện nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp tương xứng với vị trí, nhiệm vụ của công tác lý lịch tư pháp trong tình hình mới.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lý lịch tư pháp, nên ngay từ khi bắt tay vào việc triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp đã quan tâm đến công tác này. Tính đến ngày 01/7/2013 Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã tiếp nhận hơn 200.000 thông tin, trong đó có hơn 199.000 thông tin lý lịch tư pháp về án tích do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Sở Tư pháp các trại giam, trại tạm giam cung cấp. Về phía các Sở Tư pháp, sau ba năm triển khai thực hiện Luật đã tiếp nhận hơn 642.000 thông tin lý lịch tư pháp từ Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

 Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được chú trọng triển khai với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức Hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Lý lịch tư pháp cho cán bộ Lãnh đạo Sở Tư pháp, Trưởng (phó) Phòng Hành chính tư pháp, Phòng Lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự, tuyên truyền trên Đài truyền hình Việt Nam, xuất bản tạp chí chuyên đề...

Công tác phối hợp liên ngành được quan tâm triển khai tại Trung ương và địa phương. Bộ Tư pháp đã chủ động có nhiều văn bản trao đổi với các cơ quan có liên quan trong việc triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp Nhiều địa phương đã xây dựng quy chế phối hợp liên ngành thực hiện triển khai Luật Lý lịch tư pháp tại địa phương. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác phối hợp với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong cung cấp, tiếp nhận, phối hợp tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp ngày càng được chú trọng, nâng cao và đi vào nền nếp.

Ý nghĩa, giá trị của Phiếu lý lịch tư pháp trong đời sống xã hội ngày càng được nâng lên. Phiếu lý lịch tư pháp được coi là giấy tờ pháp lý quan trọng chứng minh cá nhân có hay không có án tích khi tham gia vào các quan hệ pháp lý, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, hiện nay có nhiều văn bản của Nhà nước ta quy định về việc phải có Phiếu lý lịch tư pháp khi tham gia vào các quan hệ pháp lý, theo đó Phiếu lý lịch tư pháp trở thành một trong những giấy tờ bắt buộc phải có của cá nhân.. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác quản lý lý lịch tư pháp trong đời sống xã hội của các cơ quan, tổ chức ngày càng được nâng lên. Ủy ban nhân dân tại nhiều tỉnh, thành phố đã quan tâm bố trí biên chế, đầu tư kinh phí, trang thiết bị, chỉ đạo các cấp, các ngành ở địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lý lịch tư pháp vẫn còn một số hạn chế, bất cập như:

Giữa Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật còn một số quy định chưa có sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong thực tế 3 năm triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, một số quy định của Luật Lý lịch tư pháp đã phát sinh bất cập, hạn chế như vấn đề tổ chức cơ quan quản lý lý lịch tư pháp; vấn đề cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 theo yêu cầu của cho cá nhân; vấn đề cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người không quốc tịch cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế.

Để công tác lý lịch tư pháp được triển khai tốt thì bộ máy,biên chế nhân sự làm công tác lý lịch tư pháp có vai trò rất quan trọng. Nhưng trên thực tế hiện nay biên chế, nhân sự làm công tác lý lịch tư pháp còn thiếu và yếu. Tại các Sở Tư pháp, tính đến ngày 01 tháng 7 năm 2013, chỉ có 169 biên chế làm công tác lý lịch tư pháp. Như vậy, số lượng biên chế làm công tác lý lịch tư pháp hiện nay còn quá ít, mới được khoảng hơn 1/2 so với số lượng biên chế tối thiểu theo Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ''Xây dựng Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và kiện toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp''. Chất lượng của đội ngũ công chức làm công tác lý lịch tư pháp tại các địa phương chưa chuyên nghiệp, chưa có trình độ chuyên môn sâu do nhiều công chức chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ lý lịch tư pháp

Mô hình tổ chức của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Nghị định số 111/2010/NĐ-CP đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của công tác lý lịch tư pháp. Hiện nay, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia được xác định là đơn vị sự nghiệp. Do tính chất đặc thù của công tác quản lý lý lịch tư pháp là tích hợp thông tin về án tích từ các cơ quan tiến hành tố tụng nên hoạt động phối hợp giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan hữu quan có tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, do là đơn vị sự nghiệp nên gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ phối hợp với các cơ quan nhà nước liên quan đến việc quản lý lý lịch tư pháp, nhất là khi đa phần các cơ quan này là cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra hoạt động lý lịch tư pháp đối với các địa phương, khi mà Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia được xác định rõ là đơn vị sự nghiệp và các cán bộ của Trung tâm chỉ có tư cách viên chức để thực thi các nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao, trong khi tại các Sở Tư pháp đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp được xác định là công chức.

Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phụ thuộc rất nhiều vào việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền hay nói cách khác là sự phối hợp của các cơ quan trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế công tác phối hợp liên ngành tại một số địa phương chưa thật sự nhịp nhàng, việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp chưa thật sự được đầy đủ trong mọi thời điểm. Hơn nữa Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa có quy định về cơ chế bảo đảm thực hiện đối với các cơ quan có nhiệm vụ cung cấp thông tin.

Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cũng đang gặp nhiều khó khăn do số lượng thông tin lý lịch tư pháp chưa được xử lý, cập nhật vào cơ sở dữ liệu còn tồn đọng khá lớn. Thực tế này dẫn đến việc tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp có từ ngày 01/7/2010, phục vụ công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp phần lớn vẫn còn dựa trên cơ sở thông tin của cơ quan Công an và các cơ quan khác cung cấp. Mô hình cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hai cấp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và tại các Sở Tư pháp đã bắt đầu bộc lộ các bất cập do thông tin lý lịch tư pháp phải thường xuyên trao đổi giữa các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu ở Trung ương và địa phương nên mất nhiều chi phí và thời gian. Mô hình này cũng khó bảo đảm yêu cầu về an toàn, tính chính xác và đồng bộ của dữ liệu thông tin do có quá nhiều đầu mối tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin.

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Một số các nguyên nhân chính có thể thấy, đó là nhận thức của một bộ phận lãnh đạo, cán bộ, công chức, kể cả những người làm công tác tư pháp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác lý lịch tư pháp còn hạn chế, chưa đầy đủ và đúng mức về vai trò, ý nghĩa của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước, trong đời sống xã hội và trong hoạt động tố tụng hình sự. Công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác lý lịch tư pháp chưa đi vào nền nếp. Cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác lý lịch tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp còn thiếu về số lượng và tính chuyên nghiệp. Một số nguyên nhân xuất phát từ vấn đề về thể chế. Một số nội dung cải cách tư pháp liên quan đến hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, cải cách mô hình tổ chức hệ thống tòa án đang trong quá trình hoàn thiện, đã ảnh hưởng đến tổ chức cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, ảnh hưởng đến công tác xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả của công tác lý lịch tư pháp cần một số các giải pháp về lâu dài cũng như các giải pháp trước mắt:

Trong đó việc triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là một trong những nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới bảo đảm phát triển hoạt động lý lịch tư pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, bám sát yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp cần phải được tập trung chỉ đạo quyết liệt để phục vụ hiệu quả công tác tra cứu, cấp Phiếu lý lịch tư pháp, bảo đảm từng bước chủ động trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của ngành theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành cần tiếp tục được tăng cường nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về vị trí, vai trò của lý lịch tư pháp trong đời sống xã hội, trong quản lý nhà nước và trong hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự. Công tác xây dựng thể chế về lý lịch tư pháp cần tiếp tục phải hoàn thiện, trong đó chú trọng đến việc rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến lý lịch tư pháp. Công tác phối hợp liên ngành trong triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa,  trong đó chú trọng tăng cường sự phối hợp của giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để chủ động hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật Lý lịch tư pháp và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự.  Công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra liên ngành tình hình thực hiện Luật Lý lịch tư pháp tại các địa phương phải được thực hiện thường xuyên từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, công chức, viên chức trong triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp. Công tác kiện toàn tổ chức các cơ quan quản lý lý lịch tư pháp từ Trung ương đến địa phương cần phải được quan tâm hơn nữa; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp; nâng cao chất lượng đội ngũ công chức làm công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại các cơ quan có liên quan

 Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành và địa phương cần quan tâm trong việc đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Về lâu dài cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Lý lịch tư pháp, đặc biệt là về mô hình cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác lý lịch tư pháp, trong đó chú trọng xây dựng cơ chế thông tin, phối hợp giữa các cơ quan quản lý lý lịch tư pháp và các cơ quan, tổ chức có liên quan, giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ở Trung ương và địa phương. Đầu tư thỏa đáng về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp ở Trung ương và địa phương và tại các cơ quan có liên quan trong cung cấp, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.Triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý lý lịch tư pháp và xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Nghiên cứu và triển khai thực hiện cung cấp, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp bằng dữ liệu điện tử giữa các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an, Thi hành án quân sự, Tòa án quân sự Trung ương… và các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, đặc biệt là kiểm tra liên ngành để nắm bắt tình hình thi hành Luật Lý lịch tư pháp, kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, sai phạm để tháo gỡ và chấn chỉnh để nâng cao hiệu quả công tác lý lịch tư pháp. Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp chuyên nghiệp theo hướng có chức danh cụ thể.

_________________________________________

Bài viết trên cơ sở « Báo cáo sơ kết 3 năm thi hành Luật lý lịch tư pháp và Quyết định số 2369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ »