Khi có quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp giấy chứng nhận đặc xá cho người được đặc xá. Người được đặc xá được chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan tạo điều kiện, giúp đỡ để hòa nhập với gia đình và cộng đồng; được hưởng các quyền khác như đối với người đã chấp hành xong án phạt tù theo quy định của pháp luật.
Có quan điểm cho rằng, người được đặc xá là đương nhiên được xóa án tích. Do đó, khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp, nếu người đó chỉ có 01 án tích và đã được đặc xá thi sẽ ghi trong Phiếu là “không có án tích”.
Theo quy định tại Điều 64 Bộ luật Hình sự, việc đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với 02 loại đối tượng: (1) người được miễn hình phạt; (2) người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, kể cả phạt tù cho hưởng án treo.
Đối với người được miễn hình phạt thì đương nhiên được xóa án tích không kèm theo điều kiện nào. Đối với người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù (kể cả phạt tù cho hưởng án treo) thì phải có đủ hai điều kiện: (1) tội phạm mà họ bị kết án không thuộc các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh những tội phạm này thuộc chương XI và chương XXIV Bộ luật hình sự; (2) họ không phạm tội mới trong thời hạn Bộ luật Hình sự quy định, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
Vậy, người được đặc xá có phải là người được miễn hình phạt và thuộc trường hợp đương nhiên được xóa tích ?
Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự, người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp người phạm tội được khoan hồng đặc biệt như phạm tội ít nghiêm trọng, chưa gây hậu quả hoặc gây hậu quả không đáng kể hay hậu quả đã được khắc phục hoàn toàn; trong vụ án đồng phạm thì bị cáo là người tham gia không đáng kể vào việc thực hiện tội phạm; bị cáo có nhân thân tốt, có khả năng tự cải tạo, giáo dục mà không cần áp dụng hình phạt.
Miễn hình phạt được áp dụng trong trường hợp Toà án kết tội, nhưng không áp dụng hình phạt đối với người phạm tội do có những điều kiện mà Bộ luật Hình sự quy định. Chế định miễn hình phạt thể hiện tính chất nhân đạo, thể hiện nguyên tắc xử lý có phân biệt và mục đích giáo dục phòng ngừa của pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Miễn hình phạt có thể được áp dụng đối với cả hình phạt chính và cả hình phạt bổ sung.
Bản chất pháp lý của chế định miễn hình phạt là Tòa án không quyết định hình phạt trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội, tức là không áp dụng đối với người này biện pháp cưỡng chế về hình sự khi có những điều kiện được quy định trong Bộ luật hình sự.
Người phạm tội được miễn hình phạt thì không làm phát sinh các hậu quả pháp lý của việc thực hiện trách nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, người được miễn hình phạt đương nhiên được xoá án tích ngay sau khi tuyên án.
Còn người được đặc xá, thực chất là được miễn chấp hành hình phạt còn lại theo quyết định của Chủ tịch nước.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật hình sự, người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. Như vậy, khi một người được đặc xá nghĩa là người đó không phải chấp hành hình phạt tù còn lại mà Tòa đã tuyên. Tuy nhiên, những quyết định khác trong bản án như: hình phạt bổ sung, bồi thường thiệt hại (nếu có), án phí thì người đó vẫn phải chấp hành đầy đủ.
Như vậy, một người được đặc xá không có nghĩa là người đó đương nhiên được xóa án tích. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp người được miễn hình phạt. Theo đó, thời gian để đương nhiên được xóa án tích của người được đặc xá vẫn tính bình thường theo mức hình phạt chính mà tòa án đã tuyên và thời gian này chỉ xác định từ khi người bị kết án đã chấp hành xong bản án (chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, bồi thường thiệt hại, án phí …(nếu có).
Trường hợp người được đặc xá có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, nếu họ đã được Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì Phiếu lý lịch tư pháp số 1 cấp cho người này sẽ ghi là “không có án tích”. Trường hợp, người đó vẫn trong thời hạn đang có án tích về tội phạm đã được đặc xá thì Phiếu lý lịch tư pháp sẽ ghi là “có án tích”. Nếu người được đặc xá đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự nhưng chưa được Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì cơ quan cấp Phiếu có trách nhiệm xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đó theo quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp.
Đỗ Thúy Lan
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia