Theo khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT- BTP- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BQP thì Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án gửi cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở trích lục bản án hình sự hoặc bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì Tòa án đã xét xử phúc thẩm cung cấp bản án phúc thẩm kèm theo bản án sơ thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở. Sau khi Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT- BTP- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BQP có hiệu lực thì có 02 quan điểm khác nhau về việc gửi bản án cho Sở Tư pháp cùng cấp, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án phát hành bản án hình sự sơ thẩm thì gửi ngay cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở tại 01 bản (không chờ bản án có bị kháng cáo, kháng nghị).
Quan điểm thứ hai: Khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác và gửi kèm theo bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án đó có trụ sở.
Theo quan điểm của chúng tôi, chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai bởi: Theo quy định tại khoản 3, 4, 5, 6, 7, 8 Điều 13 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT- BTP- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BQP nêu rất rõ những quyết định, giấy chứng nhận mà Tòa án có nhiệm vụ gửi cho Sở tư pháp nơi Tòa án có trụ sở. Như vậy, nếu Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án phát hành bản án hình sự sơ thẩm gửi cho Sở Tư pháp 01 bản và khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, Chánh án ra quyết định thi hành án thì tiếp tục lại gửi quyết định, trích lục thi hành án cho Sở Tư pháp, mặc dù mỗi lần gửi là những văn bản khác nhau nhưng dễ gây nhầm lẫn, thiếu sót khi phát hành. Và điều này là bất hợp lý vì theo quy định tại Điều 256 Bộ Luật Tố tụng hình sự, bản án sơ thẩm sau 30 ngày không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã ra xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
Mặt khác, tại khoản 9 Điều 13 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT- BTP- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BQP quy định thời hạn gửi trích lục bản án hình sự, bản án hình sự, quyết định, giấy chứng nhận quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 8 được thực hiện rất cụ thể.
Thực tế tại địa phương chúng tôi, khi ra quyết định thi hành án, trích lục bản án đối với bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, song song với việc gửi quyết định thi hành án, trích lục bản án thì gửi kèm cả bản án sơ thẩm cho Sở Tư pháp. Đối với bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị thì khi Tòa án nhận được bản án, quyết định phúc thẩm thì mới ra quyết định thi hành án, trích lục bản án và gửi kèm theo bản án sơ thẩm, phúc thẩm cho Sở tư pháp sở tại. Trong thời gian qua, việc Tòa án triển khai gửi bản án hình sự sơ thẩm cho Sở Tư pháp sở tại theo quy trình trên đã không xảy ra mâu thuẫn hay có vướng mắc, ý kiến nào.
Trên đây là quan điểm của chúng tôi về gửi bản án hình sự sơ thẩm cho Sở Tư pháp nơi Tòa án xét xử vụ án hình sự sơ thẩm mong nhận được sự trao đổi của đồng nghiệp và bạn đọc.