Lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức về tình trạng án tích của bị cáo để Toà án xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Xét theo góc độ này thì những thông tin về lý lịch tư pháp có giá trị chứng minh bị cáo tái phạm hay không tái phạm. Lý lịch tư pháp còn là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế… xem xét đạo đức, tư cách của cá nhân trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể liên quan đến cá nhân đó. Chính vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần đây, pháp luật thường quy định việc công dân phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp khi tham gia vào một số quan hệ xã hội cụ thể, như khi xem xét việc xuất cảnh, nhập cảnh, cho nhập, thôi, trở lại quốc tịch, nuôi con nuôi; cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, kiểm toán, y dược tư nhân; du học ở nước ngoài, tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam....
Ở góc độ cá nhân, lý lịch tư pháp cũng là phương tiện để công dân đòi hỏi sự đối xử công bằng, minh bạch từ phía các cơ quan Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền dân sự – chính trị, yêu cầu Nhà nước phải bảo đảm cho họ được làm các công việc mà pháp luật không cấm nếu họ xuất trình được Phiếu lý lịch tư pháp chứng minh họ không có án tích. Lý lịch tư pháp là một hình thức quản lý con người hiện đại trong một xã hội dân sự khi mà quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ.
Các quy định pháp luật của Việt Nam về lý lịch tư pháp thể hiện rõ nét vấn đề bảo đảm quyền con người thông qua các quy định về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp, chế định xóa án tích và quyền tiếp cận thông tin lý lịch tư pháp.
1. Về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp
Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định toàn bộ nội dung, quy mô, cơ chế quản lý lý lịch tư pháp của mỗi quốc gia. Xét về mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của lý lịch tư pháp lúc đầu chỉ là những vấn đề mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi quản lý lý lịch tư pháp cũng được mở rộng ra các lĩnh vực khác như thương mại, hành chính… Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cách làm của mỗi nước.
Cũng như pháp luật của nhiều quốc gia có nền hành chính – tư pháp phát triển và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật Lý lịch tư pháp đưa ra khái niệm lý lịch tư pháp như sau: “Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Toà án tuyên bố phá sản” (khoản 1 Điều 2). Như vậy, theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, những hành vi vi phạm của cá nhân bị xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính (thường được gọi là “tiền sự”) không thuộc phạm vi quản lý lý lịch tư pháp và không ghi vào Lý lịch tư pháp của cá nhân.
2. Quy định liên quan đến vấn đề xóa án tích
Kết án một người là sự đánh giá chính thức của Tòa án nhân danh Nhà nước về hành vi phạm tội mà người đó đã gây ra đối với xã hội. Hậu quả trực tiếp của sự đánh giá này là người phạm tội phải chịu hình phạt. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, người bị kết án còn bị đặt vào một hoàn cảnh "thử thách tiếp theo" sau khi chấp hành xong bản án – đó là phải mang án tích. Đây là cơ sở để xác định tội phạm, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm nếu họ lại phạm tội.
Xóa án tích là một chế định mang tính nhân đạo của pháp luật hình sự thể hiện sự thừa nhận về mặt pháp lý người bị kết án không còn mang án tích nữa và vì vậy không phải tiếp tục gánh chịu bất cứ hậu quả nào do việc kết án mang lại. Nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất của chế định xóa án tích là ở chỗ: người được xóa án tích coi như chưa bị kết án (không có tiền án). Điều đó có nghĩa là từ thời điểm được xóa án tích, họ trở thành người hoàn toàn bình thường về mặt tư pháp và không ai có thể căn cứ vào sự kiện họ đã bị kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi đã được xóa án tích, các giấy tờ liên quan đến căn cước, lý lịch của họ đều được ghi là "không có án tích" và nếu người đó lại phạm tội mới thì cũng coi như phạm tội lần đầu.
Ngoài quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề xóa án tích, Luật Lý lịch tư pháp cũng có quy định liên quan đến việc xóa án tích đương nhiên. Điều 33 Luật Lý lịch tư pháp quy định Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp trong trường hợp người bị kết án được xóa án tích, cụ thể: (1) khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích hoặc quyết định xoá án tích của Toà án thì ghi “đã được xoá án tích” vào Lý lịch tư pháp của người đó và (2) khi xác định một người có đủ điều kiện đương nhiên được xoá án tích quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự thì Sở Tư pháp ghi “đã được xoá án tích” vào Lý lịch tư pháp của người đó.
Như vậy, bên cạnh 02 phương thức xác nhận sự kiện xóa án tích cho người bị kết án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Lý lịch tư pháp đã bổ sung thêm một phương thức nữa để xác nhận sự kiện người bị kết án đương nhiên được xóa án tích. Theo đó, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp, trong quá trình cập nhật thông tin của người bị kết xóa án, khi xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, thì ghi “đã được xóa án tích” vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án. Quy định mới của Luật Lý lịch tư pháp đã tạo thêm một khả năng, một cơ hội để cho công dân lựa chọn cách thức xác nhận sự kiện mình được xóa án tích sao cho tiện lợi nhất.
Có thể nói, chế định xóa án tích và chính sách tạo điều kiện cho người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành án thể hiện sâu sắc tính nhân đạo trong chính sách hình sự và quản lý xã hội của Nhà nước ta. Tuy nhiên, bản chất nhân đạo của chính sách này chỉ được thể hiện trọn vẹn khi nó được gắn liền với việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đã được xóa án tích. Phiếu lý lịch tư pháp ghi “không có án tích” sẽ tạo điều kiện cho người bị kết án tái hoà nhập cộng đồng, bớt mặc cảm và không bị cộng đồng phân biệt đối xử. Thực tế cho thấy người đã được xoá án tích chỉ có thể tham gia vào các quan hệ xã hội như xin việc làm, xuất khẩu lao động, du học, thăm thân nhân, xuất cảnh, thành lập doanh nghiệp… khi có Phiếu lý lịch tư pháp “sạch” xác nhận nội dung “không có án tích”. Với việc xác nhận của Phiếu lý lịch tư pháp, người được xoá án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hoà nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn.
3. Quy định liên quan đến vấn đề tiếp cận thông tin lý lịch tư pháp
Lý lịch tư pháp gồm những thông tin rất quan trọng về cá nhân nên việc quy định những chủ thể có quyền tiếp cận thông tin về lý lịch tư pháp là rất cần thiết nhằm bảo đảm bí mật đời tư của cá nhân cũng như đáp ứng được các mục đích của quản lý lý lịch tư pháp. Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của mình (khoản 1 Điều 7). Quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân không bị hạn chế về mục đích sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp. Tùy theo yêu cầu sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp, nếu đáp ứng đủ các điều kiện về thủ tục thì cá nhân đó có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của mình.
Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cũng có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân có liên quan để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã (khoản 2, 3 Điều 7). Như vậy, để bảo đảm quyền bí mật thông tin của cá nhân, Luật Lý lịch tư pháp quy định chỉ cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội mới có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân và cũng bị giới hạn ở những mục đích nói trên.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước và trong đời sống xã hội, chúng tôi có một số đề xuất nhằm phát triển hoạt động lý lịch tư pháp theo hướng gắn với vấn đề bảo đảm quyền con người, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, phát huy vai trò của lý lịch tư pháp là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Lý lịch tư pháp là một thiết chế đã được định hình vững chắc trong hoạt động tư pháp của các quốc gia. Thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có được thông tin chính thức về tình trạng án tích của bị can, bị cáo. Đây là một trong các yếu tố chủ yếu để Tòa án xem xét, quyết định áp dụng hình phạt thích hợp đối với người phạm tội.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự mặc dù có khá nhiều quy định liên quan đến án tích và xóa án tích, tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhưng lại chưa có quy định về lý lịch tư pháp. Chính vì vậy, cần phát triển hoạt động lý lịch tư pháp theo hướng là công cụ bổ trợ cho giai đoạn tố tụng, đặc biệt là với công tác xét xử. Phiếu lý lịch tư pháp cần được xác định là căn cứ quan trọng, không thể thiếu để Toà án xem xét nhân thân của bị cáo, là nguồn thông tin chính thức để Tòa án xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với bị cáo trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể. Đây cũng là ý nghĩa quan trọng hàng đầu biện giải về sự cần thiết của hệ thống quản lý lý lịch tư pháp của hầu hết các nước trên thế giới.
- Thứ hai, cần hiểu đúng về ý nghĩa của Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, có 02 loại Phiếu lý lịch tư pháp: Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Đây là 02 loại Phiếu khác nhau cơ bản về đối tượng được cấp và về nội dung của Phiếu.
Phiếu lý lịch tư pháp số 1 được cấp cho công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt Nam, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Án tích đã được xóa thì không ghi vào Phiếu lý lịch tư pháp số 1. Thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ ghi vào Phiếu số 1 khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu.
Phiếu lý lịch tư pháp số 2 chỉ được cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng và cấp theo yêu cầu của cá nhân để người đó biết được nội dung về lý lịch tư pháp của mình. Trường hợp một người đã bị kết án thì Phiếu số 2 sẽ ghi tất cả các án tích (bao gồm án tích chưa được xóa và án tích đã được xóa). Phiếu số 2 cũng bao gồm thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, một số cơ quan đại diện của nước ngoài tại Việt Nam đã yêu cầu công dân Việt Nam phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 khi làm thủ tục xin thị thực nhập cảnh hoặc làm các thủ tục khác tại cơ quan đại diện. Tuy nhiên, việc công dân Việt Nam phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 khi làm thủ tục xin thị thực nhập cảnh theo yêu cầu của cơ quan đại diện là không phù hợp với quy định của Luật Lý lịch tư pháp về mục đích sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp số 2 (theo quy định tại Điều 41, Phiếu lý lịch tư pháp số 2 chỉ được cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng và cấp cho cá nhân để người đó biết được nội dung về lý lịch tư pháp của mình). Điều này sẽ gây bất lợi cho cá nhân, đặc biệt là những người đã từng bị kết án nhưng đã được xóa án tích, đặt họ vào trong tình trạng bị phân biệt đối xử và không phù hợp với chính sách hình sự của Việt Nam. Từ sự phân tích nêu trên, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, cần nghiên cứu sửa đổi quy định của Luật Lý lịch tư pháp theo hướng Phiếu lý lịch tư pháp số 2 chỉ cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, không cấp cho cá nhân.
- Thứ ba, về vấn đề ghi nhận người bị kết án đủ điều kiện được đương nhiên xóa án tích trong Lý lịch tư pháp. Theo quy định hiện hành, Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người có yêu cầu. Người muốn được cấp giấy chứng nhận xoá án tích phải nộp đơn tại Toà án sơ thẩm đã xét xử vụ án. Kèm theo đơn, người đó phải có các giấy tờ như giấy chứng nhận của Công an cấp huyện về việc bản thân không phạm tội mới trong thời gian mà pháp luật quy định để được xoá án tích. Trường hợp phải thi hành các hình phạt thì tùy từng trường hợp phải có giấy chứng nhận đã chấp hành xong các hình phạt tương ứng. Nếu bản án có quyết định bồi thường, thì người bị kết án phải nộp những giấy tờ chứng minh đã bồi thường xong, biên lai nộp án phí. Trên cơ sở xem xét các giấy tờ có liên quan, Tòa án sẽ xem xét và cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho đương sự.
Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay là người bị kết án đã chấp hành xong bản án nhưng đã qua thời gian khá dài, không còn lưu giữ được các giấy tờ, biên lai liên quan đến việc đã chấp hành xong hình phạt cũng như các nghĩa vụ dân sự khác. Trong một số trường hợp, do bản án được tuyên trước đây nhiều năm, người bị kết án đã chấp hành xong bản án và đã có đủ điều kiện về mặt thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng các cơ quan Tòa án, Công an cũng không còn lưu giữ được bản án. Vì vậy, khi người bị kết án yêu cầu Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên xóa án tích nhưng vì không còn lưu giữ được bản án nên Tòa án từ chối cấp cho đương sự, gây khó khăn cho người bị kết án khi hoàn tất các thủ tục tham gia các quan hệ xã hội khác.
Với chức năng là cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật thông tin về tình trạng án tích của người bị kết án. Như vậy, theo quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp, trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự, nhưng chưa nhận được giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ xác minh về việc người đó có phạm tội mới hay không trong thời hạn đang có án tích. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú sau khi chấp hành xong bản án để tiến hành xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay không. Trường hợp kết quả xác minh tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức cho thấy người bị kết án có thể đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp tiến hành xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan để làm rõ về việc người bị kết án có đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay không.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, quy định này đã đặt ra một nhiệm vụ mới, rất khó khăn, phức tạp cho ngành Tư pháp trong khi điều kiện về nguồn nhân lực cũng như kinh phí của các cơ quan quản lý lý lịch tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong các trường hợp bản án được tuyên trước đây nhiều năm và các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an không còn lưu giữ được hồ sơ về bản án.
Để khắc phục khó khăn, bất cập nêu trên, cần nghiên cứu, sửa đổi quy định này theo hướng, sau khi cá nhân chấp hành xong bản án và đã có đủ điều kiện về mặt thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có nhiệm vụ thông báo cho Toà án xét xử sơ thẩm vụ án thông tin về việc người bị kết án đã có đủ điều kiện về mặt thời gian để đương nhiên được xóa án tích. Trên cơ sở ý kiến nhất trí của Tòa án, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ ghi nhận việc người bị kết án đã đủ điều kiện được đương nhiên xoá án tích vào Lý lịch tư pháp của người đó. Đồng thời, khi có yêu cầu, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đó, trong đó sẽ ghi là “không có án tích”.
- Thứ tư, về quản lý lý lịch tư pháp của người chưa thành niên.
Do đặc điểm riêng của người chưa thành niên khi phạm tội, họ chưa hoàn thiện về thể chất và tâm thần nên pháp luật hình sự Việt Nam cũng có chính sách đặc biệt áp dụng đối với họ. Bộ luật Hình sự dành riêng một chương (Chương X) quy định về chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội. Chính sách này được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Đặc biệt, Bộ luật Hình sự quy định án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Hình sự, thời hạn để xóa án tích đối với người chưa thành niên là một phần hai thời hạn đối với các trường hợp thông thường. Người chưa thành niên phạm tội, nếu được áp dụng các biện pháp tư pháp, thì không bị coi là có án tích.
Mặc dù chính sách, pháp luật với người chưa thành niên đang từng bước được hoàn thiện, nhưng phải nói rằng, hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên vẫn còn nhiều bất cập, thiếu các quy định cụ thể liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho các vụ việc liên quan tới người chưa thành niên cũng như vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên phạm tội. Hiện nay, pháp luật về lý lịch tư pháp của Việt Nam cũng chưa có quy định riêng về lý lịch tư pháp của người chưa thành niên mà vẫn được quản lý chung như các đối tượng khác. Vì vậy, vấn đề này cần được xem xét, bổ sung trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, cũng như việc mở rộng quyền dân chủ của cá nhân trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, Lý lịch tư pháp ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ của công dân theo đúng pháp luật. Trong bối cảnh thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay, Lý lịch tư pháp cần được đầu tư, nghiên cứu và phát triển theo hướng gắn với vấn đề bảo đảm quyền con người và là một chế định không thể thiếu đối với nền tư pháp dân chủ và công bằng trong một Nhà nước pháp quyền./.
Đỗ Thúy Lan – Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia