Như vậy, theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, công dân Việt Nam bị Tòa án nước ngoài kết án là một trong những đối tượng quản lý lý lịch tư pháp và nguồn thông tin để lập Lý lịch tư pháp trong trường hợp này theo quy định tại Điều 15 Luật Lý lịch tư pháp là trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Theo đó, trường hợp nhận được trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp sẽ cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Ví dụ: Các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và một số nước có quy định về việc các nước ký kết thông báo cho nhau về các bản án có hiệu lực pháp luật xét xử công dân của nước ký kết kia[1].
Tuy nhiên, Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có những quy định cụ thể hướng dẫn về việc xác định trong những trường hợp nào thì lập lý lịch tư pháp đối với người Việt Nam đã bị các Tòa án nước ngoài kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà chỉ cần dựa trên cơ sở bản án, quyết định đã tuyên của Tòa án nước ngoài được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của Việt Nam
Trên thực tế, tại một số nước Ba Lan, Cộng hòa Séc.., việc xử lý vi phạm hành chính về sức khỏe, vi phạm liên quan đến tài sản, vi phạm đến quyền lợi người tiêu dùng... do cơ quan Tòa án tiến hành. Hiện nay, qua thực tiễn tiếp nhận và xử lý các thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Cộng hòa Séc hoặc Ba Lan cung cấp cho thấy các phán quyết đối với công dân Việt Nam chủ yếu là các loại việc về vi phạm bản quyền, hàng hóa với các hình phạt chính là hạn chế tự do, phạt tiền. Các biện pháp bổ sung bao gồm: Bồi hoàn tiền, cấm lái xe, tịch thu tài sản, buộc sửa chữa khắc phục hậu quả… Tòa án tại một số nước khi xét xử các hành vi thuộc lĩnh vực về hành chính như đã nêu ở trên, nếu các nước đó có hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, thì đều thực hiện cung cấp các bản án đã xét xử đối với hành vi vi phạm do công dân Việt Nam thực hiện tại nước đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam mà trực tiếp là cung cấp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia.
Như vậy, có thể thấy, những thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cung cấp chủ yếu là các vi phạm về hành chính. Trong khi đó theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp “Lý lịch tư pháp chỉ được lập trên cơ sở các bản án hình sự có hiệu lực hoặc bản án phúc thẩm” hoặc các quyết định của Tòa án, các loại thông tin liên quan đến quá trình thi hành án của đương sự. “Lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”
Như vậy có thể thấy, nguồn thông tin lý lịch tư pháp phần lớn dựa trên các thông tin liên quan đến hình sự.
Trong khi Luật Lý lịch tư pháp chưa có các quy định cụ thể về việc xử lý như thế nào đối với các quy định về việc Tòa án nước ngoài cung cấp bản án, phán quyết của minh, thì cần thiết phải có những quy định cụ thể theo hướng: Việc ghi vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của Việt Nam chỉ thực hiện trên cơ sở các hành vi vi phạm của công dân Việt Nam tại nước ngoài cũng được coi là các hành vi vi phạm về hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam
Kinh nghiệm của nước ngoài khi xử lý vấn đề này như thế nào?
Vấn đề quản lý lý lịch tư pháp của công dân của một nước khi người đó phạm tội ở nước ngoài cũng được quy định rất cụ thể đổi với việc quản lý lý lịch tư pháp tại một số nước. Ví dụ như tại Cộng hòa Liên bang Đức. Theo quy định của CHLB Đức, những người Đức phạm tội ở nước ngoài, nếu vẫn còn mang quốc tịch Đức và có hộ khẩu thường trú tại Đức, thì cũng vẫn phải lập lý lịch tư pháp và lưu tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của Cơ quan đăng ký liên bang. Người Đức phạm tội ở nước ngoài bị tuyên án tại nước ngoài, nếu như tội đó cũng được công nhận tại Đức, thì mới ghi vào lý lịch tư pháp. Tuy nhiên nếu tội đó theo quy định của Đức không phải là tội, nhưng vẫn ghi vào cơ sở dữ liệu là không coi là tội ở Đức. Nếu công dân Đức bị kết án ở nước ngoài mà tội đó ở cả hai nước đều coi là có tội, thì mức án ở nước ngoài sẽ được ghi vào cơ sở dữ liệu. Nếu là án chung thân, thì chỉ ghi là 15 năm (theo quy định của Đức). Thời hạn xóa án tích đối với công dân Đức phạm tội ở nước ngoài sẽ theo quy định của Luật Đức.
Các trường hợp theo quy định của Đức không phạm tội thì vẫn ghi vào cơ sở dữ liệu trong một phần khác để theo dõi và chỉ lưu trong 5 năm. Những thông tin này sẽ cung cấp cho Viện công tố, Tòa án của nước ngoài nếu họ cần.
Trước đây, tại thập niên những năm 1950, nếu công dân Đức phạm tội ở nước khác như tại Thổ Nhĩ Kỳ, Tuy-ni –di, thì phải thông báo cho cơ quan tại Đức được biết thông tin về Tòa án đã kết án. Đối với những trường hợp đó cần xem những tội đó có được xem là tội hình sự theo pháp luật của Đức hay không. Đối với những tội theo pháp luật của Đức thì không bị coi là có tội, những vẫn phải ghi chú những tội đó đã được kết án bằng tòa án nước ngoài. Nếu Tòa án không bắt được đương sự thì vẫn tiến hành xét xử và sau đó gửi thông tin về việc xét xử đó cho cơ quan của Đức. Cơ quan của Đức sẽ có thư mời gửi tới đương sự hỏi thêm về những thông tin đó. Đương sự đó có thể làm đơn kháng cáo về việc ghi những thông tin vào lý lịch tư pháp của anh ta, tuy nhiên số lượng kháng cáo thành công rất ít. Họ có thể làm đơn gửi đến Tòa án của bang, nếu Tòa án chấp nhận kháng cáo thì quyết định của Tòa án là đúng.
Với sự phát triển của Liên minh Châu Âu, thì cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp càng phát triển. Nếu tòa án của nước nào đó kết án công dân Đức ở nước ngoài, thì chỉ cần Cơ quan đăng ký liên bang cung cấp thông tin là có thể biết hết tiền án của người đó ở các nước khác nếu họ có phạm tội.
Kể từ ngày 27/4/2012, theo quy định của Luật mới, những thông tin phạm tội của công dân Đức ở nước ngoài, nếu không phù hợp với pháp luật hình sự của Đức, thì vẫn phải lập lý lịch tư pháp, tuy nhiên, những thông tin này không cung cấp cho các cơ quan khác.
Các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong liên minh Châu Âu, nếu có yêu cầu cung cấp thông tin, thì Cơ quan đăng ký liên bang vẫn cung cấp thông tin tuy nhiên phải phù hợp với các nguyên tắc bảo vệ bí mật cá nhân.
Tại Nauy, nếu công dân của Nauy phạm tội ở nước ngoài, thì cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ thông báo cho cơ quan có trách nhiệm quản lý lý lịch tư pháp của Nauy và cơ quan này sẽ gửi thông tin đó tới một Ủy ban tư vấn. Ủy ban này sẽ có nhiệm vụ xem xét, nghiên cứu xem công dân Nauy phạm tội đó ở nước ngoài, thì tội đó theo pháp luật của Nauy có bị coi là có tội hay không và có phải thực hiện ghi chú vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của Nauy hay không? Việc thực hiện ghi vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của Nauy chỉ trong trường hợp tội đó theo pháp luật Na uy là có tội và phải thực hiện ghi chú vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
Như vậy, để phù hợp với thực tế khi triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp cũng như phù hợp với xu hướng phát triển lý lịch tư pháp trên thế giới, thì cần thiết phải có những quy định cụ thể đối với các trường hợp công dân Việt Nam khi bị Tòa án nước ngoài xét xử thì trong những trường hợp nào thì thực hiện việc lập lý lịch tư pháp cũng như việc lưu các thông tin đó trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia.
Ths. Trần Thị Thu Hằng – Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia